Những đóng góp vào lịch sử kinh tế học Trường_Kinh_tế_và_Khoa_học_Chính_trị_Luân_Đôn

LSE và Cambridge

Trong những năm 1930, cuộc tranh luận giữa LSE và trường đại học Cambridge rất nổi tiếng trong giới trí thức. Sự bất đồng ý kiến này bắt nguồn khi Edwin Cannan (1861-1935), giáo sư Kinh tế học ở LSE, và Alfred Marshall (1842-1924), giáo sư Kinh tế chính trị ở Cambridge và cũng là nhà kinh tế học đầu ngành lúc bấy giờ, tranh luận về vấn đề nền tảng của kinh tế học và liệu kinh tế học có nên được coi là một thực thể có hệ thống hay không (whether the subject should be considered as an organic whole) (Marshall đã bác bỏ quan niệm của LSE về sự riêng rẽ giữa học thuyết và lịch sử kinh tế.)

Sự tranh luận còn liên quan đến vai trò của một nhà kinh tế học, liệu nên được coi là một chuyên gia riêng hay chỉ là một cố vấn về mặt thực tiễn. Với LSE và những nhà kinh tế–sử học, sự ứng dụng của các lý thuyết kinh tế mang tính quyết định cao hơn bản thân chúng.[neutrality disputed] Các nhà kinh tế học ở LSE và Cambridge đã cùng làm việc với nhau vào những năm 1920, tiêu biểu là "the London and Cambridge Economic Service" – tuy vậy nhưng đến những năm 1930 thì cuộc tranh cãi giữa hai trường đại học này lại tiếp tục diễn ra trước giải pháp cho vấn đề khủng hoảng kinh tế.Các giáo sư RobbinsHayek của LSE, và Keynes của Cambridge là những nhân vật chính trong sự bất đồng chính kiến giữa hai trường. Cuộc tranh luận được mở rộng từ vấn đề giảm phát cùng với quản lý lượng cầu - như là giải pháp cho những vấn đề kinh tế lúc bấy giờ, cho đến những khái niệm rộng hơn của kinh tế họckinh tế vĩ mô. Quan điểm của RobbinsHayek được dựa trên ý kiến của Học viện Kinh tế Áo về sự nhấn mạnh vào tự do thương mại và chống chủ nghĩa can thiệp, đây cũng là một phương thức mà Robbins sau này đã tiếp cận và đi đến kết luận là không thích hợp cho bối cảnh khủng hoảng kinh tế những năm 30.

LSE và Chicago

Keynes và những chính sách, đường lối về kinh tế của Cambridge đã trở thành khuôn mẫu chuẩn kể từ những năm 30. Tuy sức ảnh hưởng ngày càng mạnh của Milton FriedmanHọc viện Kinh tế Chicago nhưng vẫn phải nói rằng nhiều ý kiến về đường lối dân chủ của LSE vẫn ảnh hưởng đến phần lớn kinh tế dân chủ hiện đại. Lý do là do tầm ảnh hưởng chung của Friedrich Hayek đến cả hai trường (sau khi rời khỏi LSE ông đã chuyển tới Học viện Kinh tế Chicago).Sự kiểm chứng về tính hợp lệ trong lý lẽ của Hayek nằm ở sự lớn mạnh của những tổ chức và hiệp định quốc tế về tự do mậu dịch, ví dụ như những tổ chức và hiệp định đã qua được GATT (Hiệp định chung về Thuế quanMậu dịch mà sau này trở thành WTO, Tổ chức Thương mại Thế giới). Những ảnh hưởng về kinh tế họcLSE là mô hình Học viện Kinh tế đầu tiên trên thế giới. Một số đóng góp cụ thể và quan trọng trong những quan niệm của chúng ta về kinh tế học có thể được tìm thấy dưới đây, với những cá nhân đã giảng dạy, nghiên cứu và học tập ở LSE và những nghiên cứu của họ. Phần lớn những nhà kinh tế học này đã được trao giải thưởng Nobel Kinh tế cho nhiều học thuyết hay công trình nghiên cứu cụ thể, liệt kê dưới đây là những công trình có tầm ảnh hưởng nhất đến tư duy và xây dựng mô hình kinh tế hiện đại:

1.John Hicks, với đóng góp nổi tiếng nhất là sự phát triển ra mô hình Hicks-Hansen IS-LM, điểm khởi đầu chuẩn mực cho kinh tế vĩ mô trường phái Keynesian cho mọi nhà kinh tế học hiện nay.

2.Friedrich Hayek, người được trao giải thưởng Nobel Kinh tế năm 1974, một trong những người lỗi lạc nhất ủng hộ chủ nghĩa kinh tế dân chủ. Lý thuyết về kinh tế-triết học của ông đã giúp vạch ra nhiều chủ trương và chính sách kinh tế ở AnhMỹ, tạo ra tầm ảnh hưởng đến cả Margaret ThatcherRonald Reagan. Sự áp dụng tư tưởng triết học của ông đã dẫn đến những thành tựu kinh tế quan trọng như là giảm sự chi phối từ các tổ chức công đoàn lao động đến nền kinh tế (mà Bean và Crafts tin rằng là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự trì trệ về kinh tế trong suốt 25 năm trước đó, khoản thời gian mà các nước châu Âu đều có tăng trưởng kinh tế ấn tượng). Ông cũng đã tạo ảnh hưởng rõ rệt lên những tư duy kinh tế thị trường đằng sau Iron Curtain (tư tưởng đã làm sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa của các nước Đông Âu).

3.James Meade được trao giải cho những đóng góp mang tính nền tảng của ông trong lý thuyết thương mại.

4.William Arthur Lewis, người đã phát triển học thuyết về tính hai mặt của nền kinh tế (Dual Model), chứng minh sự phát triền của phần lớn những lý thuyết kinh tế về quá trình công nghiệp hóa, và tạo ra nền tảng cho quan điểm "revisionist" (tạm dịch là người theo chủ trương xét lại) của Heywood về quá trình công nghiệp hóa ở nước Pháp trong mối tương quan với nước Anh. Lewis cũng là người đi tiên phong trong việc nghiên cứu tầm quan trọng của tỷ lệ trao đổi trong thương mại quốc tế (terms of trade) trong các lý thuyết về thương mại.

5.Merton Miller, người được trao giải Nobel Kinh tế năm 1990 cho việc tiên phong về lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết kinh tế tài chính.

6.Ronald Coase, được trao giải thưởng Nobel Kinh tế năm 1991 cho những khám phá và việc làm rõ tầm quan trọng của chi phí giao dịch (transaction costs) và quyền sở hữu của cải (property rights) trong cấu trúc tổ chức và chức năng hoạt động của nền kinh tế.

7.Amartya Sen, được trao giải Nobel Kinh tế năm 1998 vì nhiều đóng góp cho bộ môn kinh tế phát triển, bao gồm sự mở đường trong nghiên cứu về bất bình đẳng giới, và ông cũng luôn chú ý sử dụng "her" thay vì "his" trong các văn bản tiếng Anh khi nhắc đến một cá thể. Sen đã rời LSE để đến Oxford. Ông không được cho phép giảng dạy chủ đề nghiên cứu chính của mình về "tình trạng nghèo khó" (poverty) trong khoa Kinh tế.

8.Robert Mundell, cũng được trao giải Nobel Kinh tế năm 1999 cho những nghiên cứu về sử dụng đồng tiền chung (optimum currency area), và những nghiên cứu này vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phân tích và xem xét tính hiệu quả của đồng tiền chung. Trong khi những tiêu chí về chính trị (như nước Anh đã dùng khi quyết định không sử dụng đồng Euro) mang rất ít điểm tương đồng với những tiêu chí về OCA của Mundell, những nhà kinh tế học mang nặng tính lý thuyết lại sử dụng các tiêu chí OCA như là công cụ chính để phân tích sự hiệu quả của đồng tiền chung.

9.Mô hình Mundell-Fleming được mở rộng từ lý thuyết IS-LM, đưa vào ảnh hưởng của điểm cân bằng từ những nơi bên ngoài lãnh thổ một quốc gia, và cũng là nền tảng cho việc phân tích những lợi ích của hai loại tỷ giá hối đoái trôi nổi và cố định.

10.George Akerlof, người được trao giải Nobel Kinh tế năm 2001, có lẽ được biết tới nhiều nhất với bài báo của ông, "Thị trường cho những cái xe hơi cũ: Sự không chắc chắn về chất lượng và Cơ chế thị trường", xuất bản trong tờ Tạp chí Kinh tế (ra hàng quý) năm 1970, nhận diện những vấn đề nghiêm trọng có thể gây tổn hại đến thị trường như là bất đối xứng thông tin (asymmetric information).

11.Cũng phải kể tới nhà kinh tế học từ LSE A.W. Phillips, người chưa từng được nhận giải Nobel cho những công trình của ông, nhưng lại vô cùng nổi tiếng với đóng góp về đường cong Phillips (được ông giới thiệu lần đầu năm 1958). Đường cong Phillips đã chứng minh được thất nghiệp và lạm phát như là công cụ của chính phụ trong việc đưa ra đường lối kinh tế đúng đắn.Bên cạnh những đóng góp to lớn về mặt hàn lâm, những công trình nghiên cứu khác và chất lượng đầu ra của LSE tiếp tục có những ảnh hưởng rõ rệt đến bộ môn kinh tế học.

•Tháng 1/2006, the IDEAS Economic Research Assessment đã xếp Học viện Kinh tế và Chính trị London LSE vào vị trí thứ 3 trong số các trường đại học có khoa nghiên cứu kinh tế tốt nhất thế giới, và vị trí thứ nhất bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ.

•Năm 1999, đại học Yale đã phân tích tầm ảnh hưởng của những nghiên cứu về Kinh tế lượng (Econometrics) và công trình của 100 người tốt nghiệp Ph.D kinh tế, từ khắp các trường trên toàn thế giới, và đã xếp LSE vị trí đầu bảng và cho rằng đây cũng là học viện duy nhất có hơn 2000 trang công trình nghiên cứu được xuất bản bởi những sinh viên đã tốt nghiệp.

•The UK Research Assessment Exercise (RAE) đã đánh giá khoa Kinh tế của LSE đạt 5* (điểm cao nhất) trong hai lần sát hạch gần đây nhất (1996 and 2001). Có rất nhiều các bảng xếp hạng phi chính phủ khác nhìn chung cũng đã xếp các khoa/phòng nghiên cứu kinh tế của LSE nằm trong top 20 trên thế giới, và phần lớn dẫn đầu các vị trí ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ. Ở những nơi khác thì LSE thường được xếp trong top 12 những nơi có chất lượng nghiên cứu tốt nhất thế giới.

Liên quan

Trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội Trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội – Amsterdam Trường Đại học Ngoại thương Trường Đại học Cần Thơ Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh Trường Chinh Trường Đại học Duy Tân Trường Trung học phổ thông chuyên, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai Trường Đại học Mỏ – Địa chất

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trường_Kinh_tế_và_Khoa_học_Chính_trị_Luân_Đôn http://specials.ft.com/ln/ftsurveys/industry/pdf/t... http://specials.ft.com/ln/ftsurveys/industry/scbbb... http://specials.ft.com/universities2001/FT3HLLAN6L... http://www.lsesu.com/ http://www.topuniversities.com/worlduniversityrank... http://www.grb.uk.com/448.0.html?cHash=5015838e9d&... http://www.nottingham.edu.my/News/News/Documents/2... http://www.triumemba.org/highlights/highlight_rank... http://en.wikipedia.org/wiki/Alexander_Carr-Saunde... http://en.wikipedia.org/wiki/I._G._PatelI.